Giới thiệu:
Hơn 100 kỹ thuật thu nhỏ ngực đã được sử dụng trong nhiều năm qua do bác sĩ phẫu thuật ưa thích nhưng chủ yếu là do kết quả không đạt yêu cầu và nhu cầu cải tiến các kỹ thuật trước đó. Thu nhỏ ngực là một phẫu thuật kết hợp tái tạo và thẩm mỹ. Những cải thiện về chức năng và tâm lý xã hội đáp ứng nhu cầu tái thiết. Yếu tố thẩm mỹ của kỹ thuật này cần đạt được “ bộ ngực lý tưởng” về hình dáng, vị trí và thể tích. Theo hiểu biết của chúng tôi, không có kỹ thuật nào được mô tả có thể đạt được hình dạng và thể tích ngực lý tưởng lâu dài như kỹ thuật thu nhỏ ngực Gargano Yin-Yang.
Phương pháp:
Các tác giả đã đi tiên phong trong kỹ thuật thu nhỏ ngực mới và áp dụng trên 185 bệnh nhân liên tiếp trong 5 năm. Bệnh nhân được phân loại theo cân nặng, chiều cao, chỉ số BMI, mức độ phì đại và kích thước ngực. Bệnh nhân cần treo tuyến vú sa trễ không được đưa vào nghiên cứu. Phân tích hình thái học được thực hiện để thu thập các dữ liệu sau: độ nhô núm vú, độ rộng nền vú, vị trí mới của NAC và
IMF, khoảng cách núm vú-IMF. Sự ổn định của hình dạng vú và cực dưới được đánh giá theo thời gian. Tài liệu ảnh có hình ảnh chồng lên nhau được chụp trước và sau phẫu thuật. Bệnh nhân được theo dõi bao gồm tái khám sau phẫu thuật sau 10-14 ngày và tái khám sau 3, 6,12 và 18 tháng.
Kỹ thuật Yin-Yang sử dụng trình tự phẫu thuật sau:
1. Cuống trên trong cho núm vú;
2. Cắt bỏ tuyến có hình chữ S ở phía bên phải vú và hình chữ Z đối diện ở phía bên trái vú;
3. Vạt da tuyến cực dưới nằm ở phía bên (Hình 1);
4. Vách ngăn vú (breast septum) được bảo tồn và hệ thống cân nâng đỡ được phục hồi;
5. Tái cấu trúc tuyến được đặc trưng bởi sự di chuyển và đan xen của hai vạt
(cuống NAC trên trong và vạt bên), nếp dưới vú được nâng lên một vị trí mới cao hơn trên thành ngực và sự đổi vị trí của hai vạt tuyến cho phép thu hẹp nền vú, cực dưới ổn định và độ nhô núm vú phù hợp.
6. Cắt da được thực hiện theo mẫu Wise (Hình 2).
(Hình 1)
(Hình 2)
Kết quả:
Trọng lượng giảm trung bình là 1.700 g (cả hai ngực kết hợp) và thời gian phẫu thuật trung bình là 150 phút. Bệnh nhân được theo dõi tối thiểu 18 tháng và tỷ lệ biến chứng chung là 6%. Nền vú, độ nhô và khoảng cách từ nếp dưới bầu vú (IMF) đến núm vú được đo ở những bệnh nhân theo dõi trên 1 năm. Kết quả cho thấy sự phân bổ khối lượng không thay đổi giữa cực trên và cực dưới. Số đo nền vú và phần nhô ra không thay đổi theo thời gian và mức tăng trung bình của chiều dài từ núm vú tới IMF chỉ 15% khi giảm lớn hơn 1.200 g mỗi bên (Hình 3).
(Hình 3)
Kết luận:
Kỹ thuật Yin-Yang là một phương pháp hiệu quả và đáng tin cậy đối với nhiều loại bệnh phì đại vú, cho phép đạt được và duy trì hình dạng, thể tích và vị trí vú lý tưởng với kết quả ổn định theo thời gian đối với nền vú, độ nhô và tình trạng giả sa trễ hoặc “bottoming out” (là tình trạng túi ngực nằm sai vị trí trong đó túi tụt xuống dưới nếp gấp dưới vú). Ngoài ra, tỷ lệ biến chứng thấp ở mức chấp nhận được mặc dù đòi hỏi phải có thời gian nghiên cứu nhất định.