Giới thiệu:
Phẫu thuật nâng ngực là một trong những phẫu thuật thẩm mỹ được thực hiện nhiều nhất (781,404 ca trên toàn quốc vào năm 2021, khảo sát ISAPS International 2021) mục tiêu là phục hồi và nâng đỡ mô tuyến sa trễ. Sự đầy đặn tại vùng cực trên ngực đạt được thường xuyên với kỹ thuật nâng ngực bằng phương pháp đặt túi. Tuy nhiên, theo vài nghiên cứu gần nhất cho thấy 20% phụ nữ có biểu hiện những biến chứng liên quan đến việc đặt túi. Rất nhiều kỹ thuật mô tả tái phân phối mô với việc cấy mỡ nhưng sự ổn định trong thời gian dài vẫn còn là sự lo ngại cần được quan tâm. Vì thế sử dụng lưới mesh để cố định được sử dụng để tránh tình trạng đấy.
Phương pháp:
Vào năm 2019, một nhóm gồm 25 bệnh nhân được thực hiện cấy mỡ và nâng ngực sử dụng vạt da mô tuyến dưới cùng với lưới mesh. Nghiên cứu bao gồm tuổi, thai kì, sụt giảm cân nặng liên quan đến tuyến vú sa trễ hoặc tuyến vú phì đại. Tất cả những sửa đổi liên quan đến đặt túi đã được loại trừ . Theo thể tích ngực và sự phân bố mô tuyến, trong 16 trường hợp phức bộ đầu vú quầng vú (NAC) được ổn định phía
trung tâm và 9 trường hợp được ổn định ở phía bên. Vạt da mô tuyến dưới được cố định với mạc ngực bằng chỉ polyester và polylactic acid (ProGrip). Tái khám được thực hiện bằng cách đo đường nấp gấp dưới vú, chụp nhũ ảnh và bộ câu hỏi đánh giá BREAST-Q.
Kết quả:
Sau thời gian tái khám trung bình mỗi năm một lần, không có sự giãn đáng kể đối với cực dưới ngực. Vị trí đầu vú được ổn định. Biến chứng sau mổ bao gồm chậm liền vết thương đối với 5 bệnh nhân không liên quan đến sự phơi tấm lưới. Nhiễm khuẩn tấm lưới với 1 bệnh nhân và được thực hiện tháo lưới với sự lành vết thương diễn ra bình thường. Mô tả nhũ ảnh không bị ảnh hưởng do sự ảnh hưởng của lưới.
Kết luận:
Phân tích câu hỏi đánh giá BREAST-Q cho thấy gia tăng chất lượng cuộc sống và sự hài lòng sau phẫu thuật. Việc đánh giá trước phẫu thuật là một yếu tố quan trọng trong kết quả thành công. Cố định lưới cho thấy kết quả ổn định lâu dài và tránh sự giãn vùng cực dưới vú trong nâng ngực và thu nhỏ ngực.