Giới thiệu
Nâng ngực bằng mỡ tự thân đã trở thành một phương pháp được nhiều người biết đến. Chúng tôi đã đánh giá lại các chỉ định mới và so sánh bốn phương pháp xử lý mỡ khác nhau.
Đối tượng nghiên cứu
Kể từ năm 2009, chúng tôi đã thực hiện 242 ca nâng ngực bằng cách ghép mỡ tự thân để điều trị chứng
giảm sản tuyến vú, bất đối xứng tuyến vú hoặc các dị tật như tuyến vú có củ (tuberous breast). Các chỉ định đã được mở rộng do tỉ lệ bệnh ALCL, BII tăng lên và bệnh nhân có mong muốn sự đầy đặn tự
nhiên. Điều này đã làm tăng nhu cầu loại bỏ các túi độn ngực và thay thế bằng mỡ, có thể là sự thay thế hoàn toàn hoặc là kết hợp túi độn ngực và cấy mỡ. Các tiêu chí nhận vào nghiên cứu là bệnh nhân phải có vị trí để hút mỡ, một thể tích ngực hợp lý có thể bổ sung bằng ghép mỡ, không có tiền sử ung thư vú, đánh giá hình ảnh học trước và sau phẫu thuật, và mong muốn có một giải pháp thay thế/bổ sung cho túi độn ngực.
Phương pháp nghiên cứu
Bốn phương pháp xử lý mỡ khác nhau đã được thực hiện. Chúng tôi quay ly tâm mỡ bằng máy trong thời gian 3 phút, với 3000 vòng mỗi phút ở 27 bệnh nhân và quay ly tâm thủ công trong 3 phút ở một nhóm 47 bệnh nhân khác. Ở nhóm thứ ba gồm 17 bệnh nhân, mỡ được gạn (decanted) trong 10 phút và ở nhóm thứ tư chúng tôi kết hợp kỹ thuật rung (Microair) và quá trình gạn được sử dụng khi hút mỡ của 141 bệnh nhân. Mỡ được lấy từ bụng, đùi, mông hoặc đầu gối và được cấy vào bằng các ống cannula thông qua các vết rạch nhỏ. Ống hút mỡ là 3-4 mm và ống ghép mỡ là 2,7 ml. Các kỹ thuật thay thế túi độn ngực bằng mỡ tự thân và kỹ thuật hỗn hợp kết hợp mỡ và túi độn ngực có thể được thực hiện đồng thời hoặc trì hoãn. Các phẫu thuật viên cần đánh giá kỹ trước khi thay thế túi độn ngực bằng mỡ tự thân vì liên quan đến da, tuyến, nang và sẹo. Mỡ tốt nhất nên được cấy vào trước và sau khi tháo túi độn trong cùng một ca phẫu thuật. Khích khích kĩ thuật cấy mỡ ngược dòng khi thực hiện cấy mỡ để làm tăng thể tích ngực
Kết quả
Thời gian theo dõi trung bình ở nhóm dùng máy là 40 tháng (khoảng 27-68 tháng) và 22 tháng (khoảng 12-30 tháng) ở nhóm thủ công. Thời gian theo dõi
ngắn hơn ở nhóm thứ ba và thứ tư (lần lượt là 17 tháng và 12 tháng).
Lượng mỡ cấy trung bình trong lần hút đầu tiên lần lượt là 216 mL (bên trái) và 204 mL (bên phải) ở nhóm dùng máy và 209 mL và 235 mL ở nhóm thủ công. Trong lần thứ hai, số lượng là 110mL ở cả hai bên, so với 134 và 152 mL.
Ở nhóm gạn (3) và nhóm kỹ thuật rung (4), lượng mỡ cấy ghép trung bình trong lần hút đầu tiên lần lượt là 279 mL (bên trái) và 233 mL (bên phải) và 237mL và 245 mL. Trong lần thứ hai, lượng mỡ là 206 và 191 mL, so với 167 và 166 mL.
Tuổi trung bình là 36 tuổi (phạm vi 19-71 tuổi). Tỷ lệ biến chứng là 4% và chủ yếu gồm 10 ca nang, 1 ca nhiễm trùng, 2 ca hoại tử mỡ. Tỷ lệ hài lòng cao hơn ở nhóm thứ ba và thứ tư trên 90%. Tám bệnh nhân đã vắng mặt trong quá trình theo dõi và 1 người không muốn điều trị thêm. Bảy bệnh nhân được điều trị bằng cấy ghép vú chủ yếu từ nhóm thứ nhất và thứ hai. Ở bệnh nhân BRAVA duy nhất, lượng mỡ được ghép là 400 mL mỗi bên trong lần lên đồng đầu tiên và 165 mL (bên trái) và 159 mL (bên phải) trong lần cấy thứ hai.
Bàn luận và kết luận
Các kĩ thuật mới đang phát triển. Các bệnh nhân đều có cảm giác ngực tự nhiên và đầy đặn hơn ở tất cả các nhóm. Kết quả thuận lợi với các nhóm gạn lọc có thể liên quan đến lực hấp dẫn ít hơn, dẫn đến khả năng sống sót tốt hơn khi ghép mỡ. Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào cũng đạt được khối lượng mong muốn. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lượng mỡ sống vẫn chưa rõ ràng. Các nghiên cứu đa trung tâm rộng hơn là cần thiết.
Các tác giả không có các lợi ích tài chính khi thực hiện bài viết này.